Ngữ pháp TOEIC – Bài 11: Mệnh đề quan hệ

Giải thích về mệnh đề quan hệ và mệnh đề quan hệ “rút gọn”.


Lời thoại của video:

Xin chào các bạn,

Trong video này mình sẽ nói về một chủ điểm ngữ pháp khá quan trọng trong tiếng Anh nói chung và bài thi TOEIC nói riêng. Đó chính là mệnh đề quan hệ. Vậy mệnh đề quan hệ là gì, cách dùng như thế nào, cách hiểu như thế nào, chúng ta hãy cùng tìm hiểu. Ví dụ ta có một câu như thế này:

The employee arrives late everyday.

The employee (người nhân viên) là chủ ngữ, arrives late everyday (đến trễ hàng ngày) là vị ngữ. Tương tự có câu khác cũng giống vậy, nhưng thay vì đến trễ ta ghi thành đến sớm:

The employee arrives early everyday.

Trong công ti có một người đến trễ, một người đến sớm, thì làm sao biết được nhân viên nào đến trễ và nhân viên nào đến sớm? Từ đó chúng ta nảy sinh một nhu cầu, đó là xác định rõ người nhân viên nào. Ví dụ mình muốn nói người nhân viên đến trễ  mỗi ngày làm trong phòng Marketing (works in Marketing), còn người nhân viên đến sớm mỗi ngày là người được thuê tuần trước (was hired last week). Bạn để ý ở đây mình ghi như một vị ngữ ở thì hiện tại đơn và quá khứ đơn. Do trong câu đã có sẵn một vị ngữ trước đó rồi, ta không thể đưa thêm một vị ngữ vào được. Với lại cụm works in Marketing không đóng vai trò vị ngữ của câu mà chỉ có vai trò xác định người nhân viên nào. Vì vậy người ta sẽ để một chữ who ở trước, trở thành một mệnh đề quan hệ. Chữ who trong tiếng Việt tương đương với chữ mà. Người ta đưa mệnh đề who works in Marketing vào để mô tả cho employee, có nghĩa là người nhân viên làm việc trong phòng Marketing là người đến trễ. Tương tự ở dưới ta thêm chữ who vào: người nhân viên được thuê tuần trước là người đến sớm mỗi ngày. Câu của chúng ta bây giờ vẫn có vị ngữ, nhưng chủ ngữ sẽ bao gồm luôn người nhân viên và mệnh đề quan hệ. Tức là chủ ngữ là một cụm danh từ, chủ ngữ chính là The employee. Phần mệnh đề là phần thuộc cụm danh từ và đi theo danh từ chính để chỉ rõ và mô tả cho danh từ chính.

Bây giờ chúng ta hãy đưa những mệnh đề quan hệ vào trong câu. Vị ngữ ta vẫn giữ nguyên và đưa ra sau. Mệnh đề quan hệ sẽ nằm ngay sau danh từ employee để chỉ rõ là employee nào.

Chắc các bạn cũng đã nghe qua khái niệm mệnh đề quan hệ rút gọn. Vậy mệnh đề quan hệ rút gọn là như thế nào? Tức là thay vì ghi who với một vị ngữ sau who, thì người ta bỏ who đi, còn vị ngữ phía sau chuyển thành động từ dạng V-ing (working in Marketing). Đây là khi nó ở dạng chủ động. Còn trường hợp ở dưới là bị động (người nhân viên được thuê). Người ta bỏ who và động từ to be (was) đi, chỉ còn động từ ở cột 3. Khi rút gọn như vậy thì nó vẫn giống mệnh đề quan hệ lúc nãy, câu vẫn không thay đổi. Việc biết được những điều này rất quan trọng khi chúng ta làm bài thi TOEIC. Cùng xét một câu như vậy nhưng dịch sang tiếng Việt: Người nhân viên làm việc trong phòng Marketing thì đến trễ mỗi ngày. Bạn để ý trong tiếng Việt, hai động từ “làm việc” và “đến” không chia thành dạng nào hết. Trong khi trong tiếng Anh thì work phải là V-ingarrive phải thêm -s. Tiếng Việt không có làm-ing hay đến-s.

Ví dụ trong bài thi TOEIC, người ta chừa ra chỗ trống và cho hai đáp án (như trong hình), làm sao để biết phải chọn dạng động từ nào? Vì trong tiếng Việt chỉ có làm việc thôi. Nên nếu đưa (B) works vào thì sai. Bạn phải hiểu ở đây là một mệnh đề quan hệ. Nên chỗ trống phải là who works, rút gọn lại là working. Chúng ta phải biết được như vậy.

Còn một cái nữa mình muốn nói với các bạn. Ví dụ mình có danh từ the report, mình muốn chỉ rõ báo cáo đó là báo cáo nào, thì mình nói báo cáo đó là báo cáo được nộp vào ngày hôm qua: The report was submitted yesterday. Mình sẽ đưa một mệnh đề quan hệ vào đây. Thay vì lúc nãy mình dùng chữ who do phía trước chỉ người, nhưng bây giờ the report không phải là người nữa thì mình dùng chữ which chỉ vật, hoặc chữ that (có thể thay thế cho whowhich). Ví dụ câu này mình hoàn toàn có thể dùng that thay cho which. Hay câu ở trên mình có thể dùng that was thay cho who was.

Còn một cái nữa, lúc nãy ta dùng mệnh đề quan hệ ở đây để mô tả cho một danh từ đứng ở vị trí chủ ngữ của câu. Nhưng mệnh đề quan hệ thực chất có thể dùng để mô tả cho bất kỳ danh từ nào trong câu. Ví dụ mình ghi một câu:

The manager reviewed the report that was submitted yesterday.

(Người quản lý xem lại báo cáo…)

Thì bây giờ cái báo cáo không phải chủ ngữ nữa mà chỉ là một cụm danh từ bất kỳ trong câu. Hoặc không thích thì mình có thể đưa nó lên làm chủ ngữ: The report that was submitted yesterday has been lost. Bây giờ nó lại làm chủ ngữ của câu. Mệnh đề quan hệ có thể nằm ở bất cứ chỗ nào trong câu, miễn nó là một danh từ thì có thể dùng mệnh đề quan hệ để mô tả cho nó.


Bài tập được lấy từ sách Economy TOEIC – RC 1000.
Tác giả: Kang Jin-Oh và Kang Won-Ki
Xuất bản: Book21 Publishing Group

Bình Luận

  • Liên kết

  • Thông tin liên lạc

    Email: toeicmoingay@gmail.com